CDM và những tiềm năng cho Việt Nam

CDM và những tiềm năng cho Việt Nam

ThienNhien.Net - Biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của các loài sinh vật trên trái đất và trở thành một thách thức lớn mà con người phải đối mặt để giải quyết. Tuy nhiên, cũng nhờ đó, những cơ hội kinh doanh mới đã mở ra cho các cộng đồng, các quốc gia khi họ biết tận dụng nguồn tài nguyên quý giá của mình.

CDM là gì?

Từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước, những bằng chứng khoa học liên tiếp được đưa ra về sự biến đổi khí hậu toàn cầu thu hút ngày càng nhiều sự quan tâm của công chúng. Một loạt các hội nghị quốc tế đã được tổ chức để đưa ra những lời kêu gọi khẩn cấp cho một bản hiệp ước chung về vấn đề này. Do đó, công ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu đã được 155 nước thông qua vào tháng 06/1992.

Mục tiêu của công ước là nhằm ổn định nồng độ khí nhà kính (GHG) trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được trước những tác động của con người. Công ước đã được cụ thể hoá bằng nghị định thư Kyoto (ra đời tháng 12/1997 và có hiệu lực từ 16/02/2005) với những quy định về tỉ lệ giảm phát thải đối với các quốc gia phát triển và các hình thức xử phạt nếu không tuân thủ..Nghị định thư bắt buộc những quốc gia thành viên bằng mọi giá cần phải cắt giảm phát thải khí nhà kính của họ xuống 5% so với mức phát thải tại thời điểm năm 1990. Đây thực sự là trách nhiệm nặng nề đối với những quốc gia công nghiệp hóa. Vì vậy, 3 cơ chế mềm dẻo đã được đưa ra nhằm giúp những nước này có thể đạt được mục tiêu, đồng thời mang lại sự phát triển bền vững cho những quốc gia đang phát triển. Đó là cơ chế đồng thực hiện (Joint Implementation viết tắt là JI), cơ chế buôn bán quyền phát thải quốc tế (International Emission Trade viết tắt là IET) và cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism viết tắt là CDM). Trong đó cơ chế JI và IET chỉ là sự giao dịch giữa các quốc gia công nghiệp hóa với nhau, còn cơ chế CDM thực sự là một cơ hội cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam tiến tới mục tiêu phát triển bền vững.

Những lợi ích từ CDM

Có thể hiểu nôm na CDM là một cơ chế hợp tác quốc tế mới trong lĩnh vực môi trường giữa các quốc gia đang phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa nhằm làm giảm phát thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu.

Với cam kết phải cắt giảm GHG, các quốc gia công nghiệp hóa phải đầu tư, đổi mới, cải tiến công nghệ với chi phí rất tốn kém mà hiệu quả mang lại không cao thì có một cách làm tốt hơn là tiến hành đầu tư những dự án CDM ở những nước đang phát triển, nơi trình độ công nghệ chưa cao, môi trường chưa bị ô nhiễm nặng, với chi phí đầu tư thấp hơn nhiều. Đổi lại, các doanh nghiệp đầu tư nhận được chứng chỉ giảm phát thải đã được công nhận (CERs) để áp dụng vào chỉ tiêu cắt giảm phát thải ở quốc gia mình.

Những quốc gia đang phát triển không bị ràng buộc bởi cam kết phải cắt giảm khí nhà kính của nghị định thư Kyoto có thể cải thiện tình hình kinh tế, xã hội và môi trường từ nguồn tài chính và công nghệ tiên tiến được chuyển giao từ những dự án CDM. Ở mức độ toàn cầu, thông qua các dự án giảm phát thải, CDM có thể khuyến khích đầu tư quốc tế, cung cấp các nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng kinh tế ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới. Bởi vậy ngay từ đầu CDM đã giành được sự quan tâm đặc biệt của cả những nước đang phát triển và những nước công nghiệp hóa.

Điều kiện để tham gia vào những dự án CDM

Để có thể hưởng lợi từ những dự án CDM, các nước phát triển và đang phát triển phải thỏa mãn 3 điều kiện: Tự nguyện tham gia, thành lập cơ quan quốc gia về CDM (Ở Việt Nam, cơ quan này là Vụ hợp tác quốc tế thuộc Bộ Tài nguyên môi trường.) và phê chuẩn nghị định thư Kyoto. Ngoài ra, các nước phát triển còn phải đặt ra chỉ tiêu giảm phát thải, có hệ thống tính toán GHG, tiến hành kiểm kê hàng năm…Đối tượng tham gia có thể là chính phủ, cơ quan trực thuộc chính phủ, chính quyền địa phương, tổ chức tư nhân, tổ chức phi chính phủ nếu thỏa mãn các điều kiện nêu trên.

Vốn đóng góp từ quốc gia đầu tư (quốc gia phát triển) cho một dự án CDM có thể là một phần, toàn phần, cho vay hoặc cho thuê tài chính hoặc hợp đồng mua CERs.

Các dự án CDM thành công được cấp CERs phải nộp mức phí là 2% tổng vốn đầu tư của dự án cho một quỹ riêng, gọi là quỹ thích ứng. Quỹ này giúp những nước đang phát triển thích nghi với những tác động môi trường tiêu cực do biến đổi khí hậu. Ngoài ra những khoản chi phí khác sẽ góp phần thanh toán những chi phí quản lý CDM. Tuy nhiên, những nước kém phát triển có thể sẽ không phải chịu các khoản phí này.

Tính đến tháng 06/2007 đã có 175 quốc gia thông qua nghị định thư Kyoto. Nếu tất cả các quốc gia này có thể giảm lượng phát thải khí nhà kính theo đúng cam kết thì tổng lượng phát thải sẽ giảm được là 61,6% so với chỉ tiêu đặt ra cho toàn thế giới.


Thế giới nhập cuộc

Nguồn thống kê này cũng cho biết đến nay đã có hơn 2100 danh mục dự án CDM được các nước đưa ra, trong đó có 760 dự án đã được Ban điều hành CDM đăng ký và 71 dự án đang chờ được đăng ký. Số lượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs) dự đoán đến hết 2012 sẽ vượt qua con số 2,2 tỷ.

Dự án CDM đầu tiên trên thế giới được thực hiện tại Rio de Janeiro, Brazil từ năm 2004, với lĩnh vực hoạt động là giảm phát thải khí nhà kính từ bãi chôn lấp chất thải bằng cách thu hồi khí mêtan để sản xuất điện. Theo tính toán, mỗi năm dự án giảm được 31 ngàn tấn mêtan, tương đương với 670 ngàn tấn CO2. Dự án đã mang lại hiệu quả tích cực cho môi trường và cộng đồng dân cư trong khu vực, đồng thời mở ra một giai đoạn mới giúp thế giới đạt các mục tiêu ngăn chặn biến đổi khí hậu và thúc đẩy sự phát triển bền vững.


Theo như biểu đồ trên, ngành năng lượng là lĩnh vực nóng bỏng nhất cho các dự án CDM trên toàn thế giới (52,68%), sau đó là các ngành xử lý và tiêu hủy chất thải (20,77%) và nông nghiệp (7,8%).

Châu Á Thái Bình Dương hiện đang là khu vực sôi động nhất về các dự án CDM. Trong đó, Ấn Độ là nơi có nhiều dự án CDM nhất, còn Trung Quốc là quốc gia đứng đầu về nhận được CERs̉, chiếm 43,46 % trong tổng số gần 172 triệu CERs. Đầu tư vào các dự án CDM nhiều nhất là các nước Anh, Ailen, Hà Lan và Nhật Bản.

Việt Nam đã sẵn sàng

Việt Nam là một trong số những quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương tham gia tích cực nhất vào những hoạt động nhằm giảm nhẹ những tác động của biến đổi khí hậu do Liên Hợp Quốc đề xuất. Tính đến tháng 3 năm 2003, thời điểm Việt Nam thành lập cơ quan có thẩm quyền quốc gia về CDM, được gọi tắt là DNA, Việt Nam đã đạt được cả 3 điều kiện để tham gia một cách đầy đủ nhất vào các dự án CDM quốc tế. Đó là: 1. Tham gia hoàn toàn tự nguyện, 2. Phê chuẩn công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) và ký kết nghị định thư Kyoto, 3. Thành lập DNA của quốc gia.

Về mặt quản lý nhà nước, bên cạnh Bộ Tài nguyên và Môi trường được lựa chọn làm DNA còn có Ban tư vấn chỉ đạo liên ngành (CNECB) nhằm tư vấn, chỉ đạo cho DNA trong việc quản lý hoạt động và tham gia đánh giá các dự án CDM tại Việt Nam. Ban này bao gồm 12 đại diện của 9 bộ, ngành liên quan và Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam.

Tháng 04/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 47/2007/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu giai đoạn 2007 – 2010, trong đó đề cao mục tiêu huy động mọi nguồn lực thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ môi trường và đóng góp vào việc tổ chức thực hiện UNFCCC, Nghị định thư Kyoto và CDM, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các dự án CDM, khuyến khích cải tiến công nghệ, tiếp nhận, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, kỹ thuật hiện đại.

Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các doanh nghiệp tham gia dự án CDM được thể hiện rõ trong Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg, trong đó quy định các doanh nghiệp này sẽ được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án, hàng hoá nhập khẩu là$ nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản xuất được, miễn, giảm tiền sử dụng đất, thuê đất và trong một số trường hợp sản phẩm của dự án CDM sẽ được trợ giá.

Hiện nay ở nước ta có 5 dự án CDM đã được Ban điều hành CDM phê duyệt, dự án đầu tiên là Thu hồi và sử dụng khí đồng hành tại mỏ dầu Rạng Đông (Bà Rịa – Vũng Tàu). Dự án này sử dụng khí đồng hành từ quá trình khai thác dầu mỏ để sản xuất điện, khí hóa lỏng dùng trong sinh hoạt và xăng. Chi phí thực hiện dự án là 73 triệu USD, dự kiến sẽ giảm 6,74 triệu tấn CO2 trong thời gian 10 năm. Tính theo giá thị trường châu Âu hiện nay, 24 euro/1 tấn CO2 thì dự án này có thể mang lại cho các bên tham gia dự án một khoản thu khổng lồ 202 triệu đô la Mỹ.

Bên cạnh đó, 13 dự án khác đã được trình lên DNA chờ phê duyệt, 16 dự án và 10 ý tưởng dự án đang được xây dựng. Như vậy số lượng các ý tưởng và dự án này nếu được phê duyệt và triển khai không hề ít, chưa kể mới chỉ tập trung vào một số lĩnh vực phổ biến của các ngành năng lượng, xử lý chất thải và lâm nghiệp, hoàn toàn có thể mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác.

Theo đánh giá của một số chuyên gia từ Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam, hình thức của các dự án CDM đã thực hiện ở Việt Nam và đa số các nước khác là các tổ chức ở các nước phát triển, thông qua các công ty cung cấp công nghệ, tìm đến các nước đang phát triển có tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính để thực hiện dự án. Điều này có nghĩa thị trường buôn bán phát thải đang ở tình trạng một chiều, người mua chủ động tìm đến những địa chỉ có tiềm năng cung cấp sản phẩm mà họ cần. Trong thời gian tới, sự phát triển về quy mô và chất lượng của thị trường sẽ thay đổi, và theo đó, hình thức buôn bán phát thải sẽ cân bằng hơn, nghĩa là sẽ có cả những nhà cung cấp sản phẩm chủ động tìm đến người tiêu dùng.

Như vậy, có thể nói rằng hành trình của Việt Nam trên con đường tuân thủ công ước của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu, nghị định thư Kyoto nói chung và Cơ chế phát triển sạch nói riêng mới chỉ bắt đầu. Nhưng với những thành công bước đầu, với những cơ chế, chính sách đã và đang xây dựng và những nguồn lực sẵn có sẽ giúp Việt Nam thành công hơn nữa trong các dự án CDM, vững bước hơn trên con đường hướng tới một quốc gia tăng trưởng về kinh tế, phát triển về xã hội và bền vững về môi trường.

Thành Trung, Nguyễn Thương

Share on :