Chuẩn mở của OpenGIS là một Web Map Server, tên gọi của nó đã thể hiện nó là một ứng dụng server cung cấp bản đồ trên Web. Sau đây là hình minh họa
![]() |
Mô hình webGIS theo chuẩn OpenGIS |
a. Web Map Server
Về cơ bản một Web Map Server có thể làm 3 việc:
- Tạo ra một bản đồ (dưới dạng ảnh, dưới dạng đồ hoạ, hay được đóng gói bằng một tập dữ liệu địa lý).
- Trả lời các truy vấn cơ bản về nội dung bản đồ.
- Cung cấp cho các chương trình khác mà Server có thể tạo ra được.
b. Web Map Client
Một Web Map Client (ví dụ một trình duyệt Web hoặc một chương trình ứng dụng) có thể yêu cầu một Web Map Server bằng các chuyển các yêu cầu (request) trong định dạng URL. Nội dung của mỗi URL phụ thuộc vào một trong ba loại dịch vụ mà Web Map Server cung cấp. Cụ thể:
- Yêu cầu để tạo ra một bản đồ, các tham số URL phải chỉ ra phạm vi địa lý (không gian) cần tạo bản đồ, hệ toạ độ được sử dụng, các kiểu thông tin được thể hiện, định dạng lưu trữ bản đồ và kích thước kết quả.
- Yêu cầu để truy vấn nội dung bản đồ, các tham số URL phải chỉ ra lớp thông tin (layer) bản đồ cần truy vấn, vị trí cần truy vấn.
- Yêu cầu cung cấp các thông tin về khả năng phục vụ của Web Map Server.
c. Cơ chế hoạt động
Từ các thông tin về Web Map Client và Web Map Server ta có thể hiệu được cơ chế hoạt động chung của WebGIS gồm:
- Cơ chế truyền thông (communication) giữa các máy tính: ở tầng dưới cùng của mô hình truyền thông, thông tin được truyền nhận bởi các tín hiệu điện tương ứng với cơ chế mã hoá nhị phân (0/1). Ở tầng tiếp theo là TCP/IP, ở tầng ứng dụng là giao thức HTTP, ở tầng này thông tin được mã hoá bởi ngôn ngữ HTTP.
- Các yêu cầu (requests): một trình duyệt “hỏi” một trang web bằng việc sử dụng một GET request. Yêu cầu này được định dạng bằng một URL;
- Đáp ứng (response) : web server sẽ kiểm tra sự tồn tại của trang web được yêu cầu, nếu tồn tại và người dùng có quyền truy cập nó sẽ trả về trang web cho người dùng, nếu không nó sẽ trả bè một thông điệp lỗi. Các trang web được mã hoá bằng HTML, ngôn ngữ này bao gồm các thẻ mô tả các thành phần của một trang.
- Hiển thị (display): trình duyệt hiển thị trang. Một khi trình duyệt chuyển đổi được HTML thành các đối tượng đồ hoạ nó có thể vẽ trên màn hình và chờ đợi người dùng tương tác lên trang.
Cả Web Map Service (WMS) và Web Feature Client (WFS) đều nằm trên Web Map Server, chúng chính là hai chuẩn công nghệ chính hình thành nên Web Map Server
Web Map Service (WMS)
Một Web Map Service cung cấp dữ liệu các đối tượng địa lý cho client theo dạng hình ảnh hoặc một đoạn mã GML (không bao gồm tọa độ không gian). Web Map Service cung cấp các chuẩn nhận request như sau:
- GetMap (bắt buộc): Yêu cầu GetMap trả về một bản đồ dưới dạng ảnh (ảnh bản đồ) trong một phạm vi địa lý và theo các tham số được định nghĩa cụ thể. GetMap được triệu gọi bởi một client để nhận về một tập hợp các pixels. Các pixels này chứa một ảnh của một bản đồ trong một vùng địa lý (không gian) hoặc một tập các đối tượng đồ hoạ nằm trong vùng địa lý cụ thể. Yêu cầu GetMap cho phép các Web Map Client chỉ ra một lớp thông tin cụ thể, hệ quy chiếu không gian (SRS), khu vực địa lý, và các tham số khác quy định định dạng dữ liệu trả về. Trên cơ sở các yêu cầu GetMap từ Web Map Client mà một Web Map Server sẽ trả về các kết quả hoặc ném một biệt lệ (exception) theo các chỉ dẫn biệt lệ trong yêu cầu GetMap
- GetCapabilities (bắt buộc): Yêu cầu GetCapabilities trả về các siêu dữ liệu mô tả Web Map Server. Các mô tả bao gồm nội dung thông tin mà WMS server có thể phục vụ, các tham số mà Web Map Server có thể nhận.
- GetFeatureInfo (tuỳ chọn): Yêu cầu GetFeatureInfo trả về thông tin về đối tượng địa lý cụ thể được hiển thị trên bản đồ. Nếu một Web Map Server hỗ trợ dịch vụ này thì bản đồ mà nó trả về được gọi là bản đồ có khả năng truy vấn thông tin và một Web map Client có thể yêu cầu thông tin về đối tượng trên một bản đồ bằng cách thêm vào URL các tham số chỉ ra một vị trí (X,Y) và số đối tượng có thể trả về thông tin.
Một Web Feature Server (WFS) cung cấp các đối tượng địa lý cho client. Nó cũng có thể cho phép các client thay đổi và thêm các đối tượng vào cơ sở dữ liệu. Khi WMS cung cấp một hình ảnh của dữ liệu thì WFS cung cấp dữ liệu thực được mã trong GML.
Một WFS có thể:
- Lấy thông tin hoặc truy vấn đến một lớp thông tin dựa theo vị trí không gian của một đối tượng được chọn.
- Update 1 đối tượng – Cho phép người dùng thay đổi một số thuộc tính trên một đối tượng lựa chọn.
- Xóa 1 đối tượng - nếu thông tin giá trị đối tượng đó không quá dài hoặc không có yêu cầu sử dụng thì có thể được xóa khỏi bộ dữ liệu.
- Tạo mới một đối tượng – Cho phép người dùng thêm mới một đối tượng lên bản đồ.
Một WFS cung cấp 3 request:
- GetCapabilities (bắt buộc) – Đây là request cơ bản cho phép client nhận ra các dịch vụ và kiểu dữ liệu do WFS hỗ trợ.
- DescribeFetuareType (bắt buộc) – Cho phép mô tả kiểu đối tượng. Khi bản đồ muốn thêm một đối tượng mới thì nó phải biết cấu trúc của đối tượng đó.
- GetFeartue (bắt buộc) – Đây là dữ liệu thật được trả về client sau request đã được nhận.