Tuy nhiên, trong thời gian qua, do những
nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu do bị khái thác quá mức, sự
chuyển đổi các HST rừng ngập mặn tự nhiên sang các vùng nuôi tôm công
nghiệp, các HST ĐNN bị suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam cũng là một
trong số rất ít quốc gia được dự đoán sẽ chịu tác động nặng nề nhất của
BĐKH.
BĐKH và ĐNN có sự tương tác mật thiết
với nhau. Một mặt, dưới tác động của BĐKH, các HST đất ngập nước chịu
những rủi ro nặng nề nhất, so với các HST trên cạn và biển; nhưng mặt
khác nếu được quản lý tốt các HST ĐNN và ĐDSH của nó sẽ có vai trò lớn
trong giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH. Trong bài viết các vấn đề sau được
nêu ra và thảo luận: i) ĐNN, ĐDSH và các dịch vụ HST ĐNN; ii) Tác động
của BĐKH tới các HST ĐNN; iii) Vai trò của ĐNN trong giảm nhẹ BĐKH, iv)
Vai trò của ĐNN trong thích ứng với BĐKH và v) Một số khuyên nghị về bảo
tồn ĐNN trong khung cảnh BĐKH.
Đặt vấn đề
“Đất ngập nước là những vùng đầm lầy,
than bùn hoặc vùng nước tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm
thời, có nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển, kể
cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6m khi triều thấp” (Ramsar,
1971).
Đất ngập nước (ĐNN) có vai trò quan
trọng đối với tự nhiên và con người, tuy nhiên trong thời gian qua, do
những nguyên nhân khác nhau, chủ yếu là do bị khai thái quá mức, các hệ
sinh thái ĐNN bị suy thoái nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu gây ảnh
hưởng về nhiều mặt tới tự nhiên và đời sống xã hội.
Gần đây, dưới tác động của biến đổi khí
hậu (BĐKH), một mặt, các HST đất ngập nước chịu những rủi ro nặng nề
nhất, so với các HST trên cạn và biển (MA, 2005; 2010), nhưng mặt khác
nếu được quản lý tốt các HST ĐNN và ĐDSH của nó sẽ có vai trò lớn trong
giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH.
Bài viết này nhằm khái quát sự tương tác
nhiều chiều của các HST ĐNN với BĐKH, và một số suy nghĩ về các giải
pháp cần làm để bảo tồn và sử dụng khôn khéo ĐNN trong khung cảnh BĐKH
hiện nay.
1.Khái quát về Đất ngập nước
ĐNN chiếm khoảng 6 % diện tích đất nội
địa của Trái đất và là các HST có năng suất cao nhất, đem lại cho xã hội
những giá trị to lớn về mặt sinh thái và kinh tế. Đất ngập nước rất đa
dạng, bao gồm khoảng 39 kiểu HST (ĐNN biển và ven biển: 11 kiểu; ĐNN nội
địa: 19 kiểu; ĐNN nhân tạo: 9 kiểu) (Hình 1).
Những lợi ích mà ĐNN đem lại cho con
người là vô cùng to lớn và rất cần thiết để đảm bảo an ninh của nhân
loại trong tương lai (MEA Board, 2005, Ramsa, 2007). ĐNN cung cấp cho
con người lương thực, thực phẩm, có vai trò như bể chứa cacbon, điều hòa
dòng chảy, kiếm soát lũ lụt, chống sói lở, dự trữ năng lượng, và duy
trì tài nguyên đa dạng sinh học (ĐDSH) với tổng lợi ích đem lại cho con
người khoảng 14 ngàn tỷ US$ (trillion) hàng năm.
Hình 1. Bản đồ đất ngập nước toàn cầu
Trong thời gian vừa qua, do các nguyên
nhân khác nhau, ĐNN bị suy thoái trầm trọng, trầm trọng hơn bất kỳ một
loại HST nào trên phạm vi toàn cầu (The UNMillennium Ecosystem
Assessment, 2010). Các số liệu thống kê đáng tin cậy cho thấy rằng,
chúng ta đã mất 50% ĐNN trên phạm vi toàn cầu và đang tiếp tục bị mất
nữa, nhất là ở các nước đang phát triển.
Gần đây, BĐKH đã và đang trở thành một
yếu tố chính làm suy thoái các HST ĐNN và qua đó tác động tới các yếu tố
gây suy thoái khác trong suốt thế kỷ này (Ramsar WWD2010 leaflet).
ĐNN/ĐDSH và BĐKH có sự tương tác lẫn
nhau. BĐKH đe dọa các HST ĐNN quan trọng. Dưới tác động của BĐKH, các
HST này đã thực sự bị suy thoái nhanh hơn các HST khác. Ngoài tác động
trực tiếp tới các quần xã sinh vật, BĐKH còn làm vấn đề trầm trọng hơn
bởi vì nó tác động tới tài nguyên nước – yếu tố đặc trưng nhất của HST
ĐNN..
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, các
HST ĐNN và ĐDSH của nó có vai trò lớn trong việc giảm nhẹ BĐKH và là yếu
tố quan trọng hỗ trợ cho cộng đồng thích ứng với BĐKH thông qua chức
năng của HST này là đảm bảo nguồn nước và an ninh lương thực cho con
người (MEA Board, 2005; 2010). Vì vậy, bảo tồn ĐNN đã được khẳng định là
một giai pháp quan trọng trong ứng phó với BĐKH, trong đó duy trì ĐDSH
của các HST sẽ làm tăng tính thích ứng (resilience) của các HST ĐNN đối
với sự thay đổi và những áp lực tác động của tự nhiên và do con người.
Trong các hội nghị gần đây liên quan đến
các công ước ĐDSH, Ramsa và BĐKH đều đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
các hoạt động về “ĐNN, Nước, ĐDSH và BĐKH” (CBD/Ramsa Joint Workplan,
2007; CBD- COP 10, 2010), rằng quản lý nguồn tài nguyên quí giá này là
một phức hệ của các giải pháp và là một cơ hội để tiếp cận với tự nhiên
và quản lý một nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN) từ các góc độ khác
nhau trong các chương trình R&D về môi trường, tài nguyên và PTBV.
2. Đất ngập nước ở Việt Nam
2.1. Các kiểu HST ĐNN
Là một quốc gia nằm ở trung tâm Đông Nam
Á (ĐNA), với bờ biển dái 3260 km chạy qua suốt 15 vĩ độ, Việt Nam có
các HST ĐNN rất phong phú và đa dạng (Hình 2). Ở Việt Nam có 68 kiểu
ĐNN, trong đó có nhiều khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế như:
Hồ Ba Bể (Vườn quốc gia Ba Bể), khu cửa sông Hồng Tiền Hải, U Minh
Thượng, Mũi Cà Mau và khu đất ngập nước Côn Đảo (Hội nghị Đất ngập nước
châu Á lần thứ tư tại Hà Nội, 23-25/6/2008) (Hình 2).
Đất ngập nước được chia thành 2 nhóm:
Đất ngập nước nội địa và đất ngập nước ven biển. Đất ngập nước nội địa
có mặt ở cả 3 miền và các vùng sinh thái, đa dạng về kiểu loại, hình
thái, tài nguyên, chức năng và giá trị đa dạng sinh học, ví dụ như HST
sông, hồ, đồng bằng/nông nghiệp. Đất ngập nước ven biển gồm đất ngập
nước cửa sông, bãi triều, đầm phá và vùng nước biển có độ sâu 6 m khi
triều kiệt, ví dụ như hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ
biển… Tổng diện tích ĐNN của Việt Nam khoảng 10 triệu héc ta, trong đó
đất ngập nước trồng lúa chiếm khoảng 4,1 triệu ha.
Từ năm 1989, Việt Nam là quốc gia thứ 50
trên thế giới tham gia Công ước Ramsar. Trong những năm qua, Việt Nam
đã có nhiều nỗ lực triển khai các hoạt động nghiên cứu, kiểm kê, xây
dựng các công cụ và kỹ thuật khác nhau để bảo tồn, sử dụng, quản lý đất
ngập nước theo tinh thần của Công ước Ramsar.
Hình 2. Một số kiểu/hệ sinh thái đất ngập nước
(Chaobuoisang.net-A, baobinhdinh.com.vn – B; tinkinhte.com – C; vn.wz.cz – D)
2.1.1. Các HST lưu vực sông
Nước ta có 2.360 con sông với chiều dài
từ 10km trở lên và 26 phân lưu của các sông lớn. Trong đó 9 sông có lưu
vực lớn hơn 10.000km2 là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kỳ Cùng – Bằng
Giang, sông Mã, sông Cả, sông Thu Bồn, sông Ba, sông Seprok – Sê San,
sông Đồng Nai và sông Cửu Long (Hình 3).
Hình 3. Các Lưu vực sông chính của Việt Nam
Nguồn: Văn phòng Hội đồng Quốc gia về Tài Nguyên nước, 2009
Sông ngòi nước ta có lượng nước phong phú với tổng lưu lượng trung bình đạt 26.600m3/s tương đương với tổng lượng nước là 839 tỷ m3/năm. Trong đó, phần nước sinh ra trong lãnh thổ là 323 tỷ m3, chiếm 38,5%; còn phần từ bên ngoài chảy vào lãnh thổ nước ta là 516 ty m3/năm, chiếm 61,5%. Riêng lượng nước từ Việt Nam chảy sang các nước xung quanh là 8,92 tỷ m3/năm, chiếm 1,1% tổng lượng nước. Trong tổng lượng nước nói trên, phần chảy mặt là 637 tỷ m3/năm, chiếm 76%, còn dòng chảy ngầm là 202 tỷ m3/năm, chiếm 24%.
Tuy nhiên, lượng nước trên được phân bổ
rất không đều giữa các hệ thống sông. Tồng lượng dòng chảy năm của sông
Mê Kông khoảng 500km3 (chiếm tới 59% dòng chảy năm của toàn Việt Nam),
sông Hồng là 126,5 km3 (14,9%), và các hệ thống khác còn lại là 24,5%
(trong số đó hệ thống sông Đồng Nai là 36,3km3 (4,3%) , hệ thống sông Cả
là 2,9 % ) (Bộ TN&MT, 2005, 2010).
2.1.2. Các HST hồ
Nước ta có nhiều hồ tự nhiên như hồ Ba Bể ở Bắc Kạn, với diện tích khoảng 5km2; Hồ Tây ở Hà Nội, 4,5km2; Biển Hồ ở Gia Lai, 8km2; hồ Lắk ở Đắk Lắk, 10km2 v.v.
Ngoài các hồ tự nhiên, ở nước ta cũng đã
xây được rất nhiều hồ chứa nước nhân tạo ở khắp mọi vùng đất nước.
Trong thời gian qua đã có hơn 10.000 hồ chứa các loại đã được xây dựng
với tổng dung tích hữu ích khoảng 37.000 triệu km3, chiếm
4,4% tổng lượng dòng chảy năm trung bình giai đoạn 1977-2008 của các
sông suối. Trong đó, có 7 hồ với dung tích trên 500 triệu m3 là Hoà Bình, 5.680 triệu m3, Trị An, 2.547 triệu m3; Thác Bà, 2.160 triệu m3; Thác Mơ 1.311 triệu m3; Dầu Tiếng 1.111 triệu m3; Yaly, 779 triệu m3; Hàm Thuận – Đa Mi, 535 triệu m3.
Tổng dung tích hữu ích của hồ chứa trong
hệ thống sông Hồng-Thái Bình (thuộc lãnh thổ Việt Nam) chiếm trên 45%,
hệ thống sông Đồng Nai – 22%, mỗi hệ thống sông Cả, Ba và sông Sê San –
7% tổng dung tích hữu ích của các hồ chứa trong cả nước.
Theo điều tra, thống kê gần đây nhất, trên địa phận 43 tỉnh, thành phố đã có trên 2.900 hồ chứa có dung tích từ 0,5 triệu m3 trở lên đang vận hành, đang được xây dựng hoặc đã có quy hoạch với tổng dung tích khoảng 65 tỷ m3, tổng công suất lắp máy khoảng 21.999 MW. (Cục quản lý tài nguyên nước, 2009).
Nói chung, các hồ ở nước ta là nơi chứa
và dự trữ nước mặt quan trọng, có vai trò trong điều hòa dòng chảy, phục
vụ thủy lợi, nuôi trồng thủy sản, giao thông thủy, phát điện đồng thời
cũng góp phần điều hòa khí hậu, tạo nên cảnh quan đẹp phục vụ cho nghỉ
ngơi, an dưỡng, du lịch.
2.1.3. Các HST đồng bằng
Đồng bằng ở Việt Nam chỉ chiếm ¼ diện
tích đất liền cả nước. Vùng đồng bằng có địa hình thấp và tương đối
phẳng với hai đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu là đồng bằng sông
Hồng (16.700 km2) và đồng bằng sông Cửu Long (40.000 km2). Ngoài ra còn
một dải đồng bằng hẹp ven biển miền Trung, từ đồng bằng thuộc lưu vực
sông Mã (Thanh Hóa) đến Phan Thiết với tổng diện tích 15.000 km2. Phần
lớn các đồng bằng nước ta là đồng bằng châu thổ, được bồi đắp bằng phù
sa của các dòng sông lớn nên đất đai màu mỡ, thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp.
Việt Nam là quê hương của lúa nước và
sản lượng lúa tăng đều trong những năm qua, đạt kỷ lục là 42 triệu tấn
lúa trong năm 2011 tăng khoảng 5% so với năm 2010. Lượng gạo dự kiến
xuất khẩu hàng năm đạt tới 7,5 triệu đến 8 triệu tấn (hai nước đứng đầu
thế giới là Thại Lan và Việt Nam).
Tuy nhiên, do địa hình khá phẳng, nên
khí hậu và đất đai của đồng bằng khá đồng nhất và chịu sự tác động trực
tiếp của biển. Đây là những đặc điểm khiến hai vùng đồng bằng lớn của
nước ta có độ rủi ro cao dưới tác động của BĐKH hiện nay.
2.1.4. Đất nhập nước ven biển
ĐNN ven biển rất phong phú và đa dạng, gồm nhiều kiểu HST khác nhau (Hình 4, Bảng1).
Ven biển có nhiều đầm, phá, bàu, trằm.
Đáng chú ý là các đầm phá Tam Giang – Cầu Hai (Thừa Thiên – Huế), có
diện tích mặt nước 216km2; Thị Nại (Bình Định), 45km2; Trường Giang
(Quảng Ngãi), 36,9km2l; Cù Mông (Phú Yên), 30,2km2; Nước Ngọt (Bình
Định), 26,5km2; Thuỷ Triều (Khánh Hoà), 25,5km2; Ô Loan (Phú Yên),
18,0km2; Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế), 16,0km2; Trà Ổ (Bình Định),
14,4km2; Đầm Nại (Ninh Thuận), 12,0km2 (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi
trường Việt Nam, 2004.
Nguồn: Bộ TN&MT, 2007
Hình 4. Đất ngập nước ven biển Việt Nam:
Sơ đồ các vùng ĐNN ven biển (A),
Bản đồ ĐNN ven biển lần đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam (B)
Bảng 1. Diện tích (ha) một số kiểu ĐNNVB của Việt Nam
Ghi chú:
* Diện tích RNM của các tỉnh ven biển
năm 2005 theo báo cáo kết quả khảo sát nhiệm vụ “Đề xuất cơ chế, chính
sách nhằm khôi phục và PTBV HST RNM ven biển Việt Nam” của Bộ
NN&PTNN, 2007.
** Diện tích NTTS mặn, lợ của các tỉnh ven biển năm 2003 theo Bộ thủy sản, 2004.
*** Diện tích đất làm muối của các tỉnh
ven biển năm 2005 theo Quyết định số 272/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 27-2-2007 về việc phê duyệt kết quả kiểm kê đất đai năm 2005 (Hội
bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, 2005; Đăng Duy Lợi và NNK,
2005; Bộ TN&MT, 2005; Trần Đức Hạ và nnk, 2009; Văn phòng Hội đồng
Quốc gia về Tài Nguyên nước, 2009; Nguyễn Thanh Sơn, 2010; Trần Thanh
Xuân và nnk, 2011, Trương Quang Học 2011).
Trong những năm gần đây, do tốc độ công
nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa đất nước, một diện tích rất lớn
đất ngập nước đã bị chuyển hóa sang mục đích sử dụng khác; tính chất,
giá trị của đất ngập nước vì vậy bị mai một. Đồng thời, sự phát triển
này đã làm cho môi trường VN nói chung, đất ngập nước nói riêng đang có
chiều hướng xấu đi do chất thải công nghiệp, ô nhiễm dầu, sử dụng hóa
chất bảo vệ thực vật, chất hữu cơ và các chất độc hại trong khai thác
tài nguyên.
2.2. Vai trò của ĐNN
Đất ngập nước
Việt Nam có vai trò rất quan trọng về mặt sinh thái và kinh tế. Một cách
khái quát, có thể phân tích vai trò của ĐNN theo các dịch vụ HST như
sau:
a. Dịch vụ cung cấp
Các HST ĐNN cung cấp nhiều loại sản phẩm cho cuộc sống, trong đó quan trọng là:
i)Cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất: Tài nguyên nước ngọt được lưu trữ trong các sông ngòi, hồ ao;
ii)Cung cấp lương thực, thực phẩm: các
thủy hải sản nước ngọt và nước lợ và nước mặn ven bờ, lúa gạo, đặc biệt
là ở hai đồng bằng lớn nhất cả nước (ĐBS Hồng và ĐBS Cửu Long).
b. Dịch vụ Điều hòa:
i) Điều hòa
nguồn nước, khí hậu: Các hồ tự nhiên và đặc biệt là các hồ chứa nhân tạo
có vai trò lớn trong dự trữ và điều hòa nguồn nước, tích lũy và hạn
chế ô nhiễm môi trường, điều hòa khí hậu, duy trì đa dạng sinh học và
bảo vệ môi trường như lọc nước thải, điều hoà dòng chảy (giảm lũ lụt và
hạn hán), chống xói lở bờ biển, ổn định mức nước ngầm cho những vùng sản
xuất nông nghiệp, tích luỹ nước ngầm.
ii) Giảm nhẹ thiên tai: Rừng ngập mặn có vai trò trong giảm nhẹ tác động của bão lụt,
c. Dịch vụ Văn hóa-tinh thần:
Các HST đất ngập nước bao gồm các bải
biển, các vùng hồ… tao lên những cảnh quan đặc biệt ngoạn mục và trong
lành, rất thuận lợi cho các dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng, sáng tác. Du
lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng đang trở thành ngành
kinh tế quan trọng của đất nước.
d. Dịch vụ hỗ trợ:
Cùng với các HST trên đấy liền
và biển, HST đất ngập nước giữ vai trò đặc biệt cho các chức năng hỗ
trợ, đảm bảo cho sự tuần hoàn của các chu trình sinh địa hóa, chu trình
năng lượng của tự nhiên. Các vùng đất ngập nước tạo môi trường thuận lợi
cho việc lắng đọng phù sa, góp phần ổn định và mở rộng bãi bồi.
Nói một cách khái quát, ĐNN có vai trò rất quan trọng trong phát tiển kinh tế-xã hội và anh nình quốc phòng.
2.3. Sự suy thoái của ĐNN
Trong thời gian qua, do những lý do khác nhau, các HST ĐNN bị suy thoái nghiêm trọng:
a. Rừng ngập mặn, trong gần 5 thập kỷ
qua, diện tích đã giảm hơn 70% do chất độc hóa học (trước đây) và phong
trào nuôi tôm công nghiệp (gần đây).
Hệ sinh thái biển và nguồn lợi hải sản
cũng bị suy thoái và là một trong những vấn đề môi trường bức súc nhất,
đặc biệt là các HST san hô và cỏ biển. Kết quả điều tra từ năm 2004 đến
2007 tại 7 vùng rạn san hô trọng điểm của Việt nam cho thấy chỉ 2,9 %
diện tích rạn san hô được đánh giá trong điều kiện phát triển rất tốt,
11,6% – tốt và 44,9% xấu và rất xấu.
b. Tài nguyên nước trong các hệ thống
sông, hồ chứa trên cả nước đang bị suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Hai
nguyên nhân chủ yếu là do sự khai thác quá mức cho những mục đích khác
nhau và BĐKH.
Thực tế hiện nay, hầu hết các tỉnh miền
Trung và Tây Nguyên đã và đang khai thác trên 50%, riêng Ninh Thuận là
70-80% lượng dòng chảy (vượt qúa ngưỡng cho phép là 30% lượng dòng chảy
mà các tổ chức quốc tế về tài nguyên nước khuyến cáo (Cục Quản lý Tài
nguyên nước, 2010).Hiện nay, số lượng và chất lượng của tài nguyên nước
trên hầu hết các lưu vực sông lớn (Sông Hồng, Thái Bình, Đồng Nai…) đã
suy thoái nghiêm trọng.
Thêm vào đấy, trong những năm gần đây,
các nước ở khu vực thượng nguồn của các con sông lớn chảy vào Việt Nam
xây dựng nhiều công trình (đập, hồ chứa nước) để khai thác và phát
triển thủy nông, thủy điện quy mô lớn khiến nguồn nước chảy vào Việt Nam
ngày càng hạn chế.
Ví dụ, sông Cửu Long phụ phuộc 95 % vào lượng nước quốc tế, lưu vực sông Hồng -Thái Bình – 40% nước từ Trung Quốc chảy về.
Gần đây, dưới tác động của BĐKH, mưa và
lượng mưa diễn biến thất thường, hạn hán, úng lụt cục bộ xẩy ra thường
xuyên và trên diện rộng, gây thiệt hai rất lớn cho sản xuất và đời sống .
Hình 5. Nước sông Hồng cạn kiệt (A) nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt (B) (vietbao.vn; vietnamplus,vn)
c. Ô nhiễm nước mặt
Hiện nay nước ta có khoảng hơn 10 triệu ha đất ngập nước, trong đó diện tích bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau, chiếm hơn 70%.
Trong hệ thống sông Việt Nam, các nhánh
sông ở thượng lưu có chất lượng nước tương đối tốt, ngoại trừ một số nơi
bị ô nhiễm cục bộ. Tuy nhiên ở hạ lưu, nhất là với các sông chảy qua
các khu công nghiệp và đô thị lớn chất lượng nước đang dần dần suy
thoái, nhiều khu vực bị ô nhiễm năng nề.
Một số đoạn sông được xếp vào loại sông
chết do không còn khả năng hỗ trợ bất kỳ hình thức sống nào. Hồ ao và
kênh rạch ở các vùng đô thị trở thành các rãnh thoát nước và nơi chứa
nước thải. Nguyên nhân là do nước thải chưa qua sử lý từ các nguồn khác
nhau (các khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, làng nghề, các khu dân
cư) phần lớn không qua sử lý trực tiếp đổ vào các sông ngòi, ao hồ, gây ô
nhiễm nguồn nước.
Hình 6. Ô nhiễm trên Sông thị vải (A) và Hồ Hà Nội (B) (bee,net.vn ; tin180.com)
Đặc biệt ở khu vực nông thôn, ô nhiễm
hóa chất nông nghiệp rất nặng nề. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn (2011), ở nước ta, lượng phân bón sử dụng trong nông nghiệp ngày
càng tăng cả về số lượng và chủng loại. Hiện nay, có khoản 1.420 loại
phân bón khác nhau được đưa ra thị trường.
Số lượng phân bón nhập khẩu trong những
năm gần đây đều tăng, đặc biệt là phân urê (khoảng 1-1,4 triệu tấn/năm
do sản xuất trong nước chỉ đáp ứng khoảng 1/3 so với nhu cầu). Lượng
phân bón hoá học này chủ yếu được sử dụng cho cây lúa, rau màu, cây công
nghiệp dài ngày và cây ăn quả.
Hiện nay có tới hơn 2700 loại hóa chất
bảo vệ thực vật gồm: Thuốc trừ sâu; thuốc trừ nấm; thuốc trừ chuột;
thuốc trừ bệnh; thuốc trừ cỏ đang được lưu hành trên thị trường với khối
lượng hàng vạn tấn. Báo cáo tổng hợp của Tổng cục Môi trường, Bộ Tài
nguyên & Môi trường, mỗi năm hoạt động nông nghiệp phát sinh khoảng
9.000 tấn chất thải nông nghiệp nguy hại, chủ yếu là thuốc bảo vệ thực
vật, trong đó không ít loại thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử dụng.
Ngoài ra, lượng thuốc bảo vệ thực vật
tồn đọng cần tiêu huỷ: 89.957,177 kg và 27.989,028 lít lưu tại hàng chục
kho bãi, khu chôn lấp cũ thời chiến tranh, 37.000 tấn hóa chất dùng
trong nông nghiệp bị tịch thu đang được lưu giữ tại các kho chờ xử lý
(Cục Bảo vệ thực vật, 2006, 2011).
Các loại thuốc này có đặc điểm là rất
độc đối với mọi sinh vật, tồn dư lâu dài trong môi trường đất – nước gây
ra ô nhiễm, tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả
những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất, nước.
Như vậy có thể thấy, tài nguyên nước
mặt– một đặc thù của các HST ĐNN đang bị suy thoái nghiêm trọng về cả số
lượng và chất lượng
2.4. Đất ngập nước và biến đổi khí hậu
2.4.1.Tác động của BĐKH tới ĐNN
BĐKH tác động tới các HST ĐNN theo
nhiều cách khác nhau (Bảng 2, 3). Nhiệt độ tăng sẽ tác động tới các loài
động, thực vật nhạy cảm với nhiệt độ; Lượng mưa giảm sẽ thu hẹp diên
tích ĐNN, làm tăng phát thải KNK vào khí quyển do sự phân hủy của các
chất hữu cơ, nhất là than bùn. BĐKH/nước biển dâng dẫn tới sự thu hẹp
diện phân bố địa lý của ĐNN.
Hơn thế nữa, các HST ĐNN phụ thuộc một
cách chặt chẽ vào mức nước của thủy vực và vì thế sự thay đổi các điều
kiện khí hậu sẽ ảnh hưởng tới lượng nước trong các HST, qua đó ảnh hưởng
tới các chức năng đặc trưng của ĐNN bao gồm cả thành phần và cấu trúc
của các quần xã sinh vật. BĐKH, vì thế là một yếu tố quan trọng trong
quản lý ĐNN. Bảo tồn và sử dụng một cách khôn khéo ĐNN chắc chắn là sẽ
không thể đạt được nếu không tính tới yếu tố BĐKH.
Bảng 2. Tác động của BĐKH tới các đối tượng ĐNN ở các vùng, miền
Số liệu ở Bảng 2, 3 cho thấy, BĐKH tác
động tới các cấu trúc thành phần và chức năng của các HST ĐNN khác nhau ở
tất cả các vùng miền. Qua đó làm suy giảm các dịch vụ HST thông qua
những tác động tới:
- Sức sản xuất/ năng suất của các HST,
- Tài nguyên nước và các dịch vụ có liên quan (giao thông, du lịch, thủy điện…);
- Sức khỏe và của cộng đồng do thiếu
nước sinh hoạt, do gia tăng các bệnh truyền qua nước (water-born
diseases) truyền qua vecto, nhất là sau các trận lũ lụt.
Những tác động này đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới đời sống của cộng đồng.
2.4.2. Tác động của ĐNN tới BĐKH
Các HST ĐNN đồng thời cũng là nguồn gây phát thải KNK góp phần gây ra BĐKH (Bảng 4)
Bảng 4. Phát thải khí nhà kính của các HST ĐNN
Tuy nhiên, nếu bảo tồn tốt các HST ĐNN,
chúng ta sẽ thu được lợi nhuận kép. Trước hết các dịch vụ HST được duy
trì sẽ phục vụ cho phát triển sinh kế, nâng cao đời sống. Mặt khác, các
HST lại là bể hấp thụ và bể chứa cácbon, góp phần làm giảm nhẹ BĐKH.
3.Chúng ta cần làm gì:
a. Đẩy mạnh công tác bảo tồn và sử dụng
khôn khéo đất ngập nước theo tinh thần của Công ước Ramsa. 1971, Công
ước ĐDSH, 1992 và Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí hậu, 1992 trong
khung cảnh BĐKH hiện nay.
b. Triển khai các giải pháp thích ứng
với BĐKH liên quan tới ĐNN trong Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó
với BĐKH (2008) và Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống và
giảm nhẹ thiên tai, 2009 và các Kế hoạch hành động tương ứng của các Bộ
ngành và địa phương, theo các lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp, Thủy
sản, Y tế và sức khỏe, Bảo tồn ĐDSH, vùng ven biển.
c. Thực hiện hiệu quả chương trình trồng rừng ngập mặn ven biển ứng phó với BĐKH
d. Nâng cao nhận thức của các nhóm đối
tượng: cán bộ quản lý và hoạch định chính sách, trong hệ thống nhà
trường và cộng đồng về BVMT, bảo tồn đất ngập nước, bảo tồn tài nguyên,
ứng phó với BĐKH và phát triển bền vững.
Kết luận
- Đất ngập nước của Việt Nam rất đa dạng, phong phú và có tác dụng nhiều mặt đối với tự nhiên và đời sống xã hội;
- Trong thời gian qua, do những nguyên
nhân khác nhau, các HST ĐNN, đặc biệt ở vùng ven biển bị suy thoái một
cách trầm trọng, ảnh hưởng tới đời sống của cộng đồng địa phương
- Dưới tác động của BĐKH, các HST đất
ngập nước chịu những rủi ro nặng nề nhất, so với các HST trên cạn và
biển; nhưng nếu được quản lý tốt các HST ĐNN và ĐDSH của nó sẽ có vai
trò lớn trong giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH
- Trong khung cảnh BĐKH, công tác bảo
tồn và sử dụng khôn khéo ĐNN, một mặt cần được đẩy mạnh, mặt khác cần có
các giai pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH theo các lĩnh vực, các vùng
trong khuôn khổ của các văn bản pháp quy về ứng phó với BĐKH và phòng
chống và giảm nhẹ thiên tai.
GS.TSKH. Trương Quang Học
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Nguồn: Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam