|
Ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp của Bắc Ninh là tình trạng khan hiếm nước tưới trong vụ đông- xuân, mưa lũ diễn biến không theo quy luật, mùa đông ấm hơn, mùa hè nóng và kéo dài… Tỉnh và các ngành chức năng đã kết hợp nhiều biện pháp chỉ đạo sát thực, với việc huy động các nguồn lực đầu tư nhiều hệ thống công trình ứng phó với biến đổi khí hậu, công trình phục vụ sản xuất và chuyển giao các loại cây trồng mới phù hợp với điều kiện thực tế của sản xuất. Các biện pháp khả thi được thực hiện là trồng cây xanh, tre chắn sóng bảo vệ đê đồng thời có tác dụng hấp thụ CO2 giảm khí thải nhà kính; hàng năm đầu tư hàng chục tỷ đồng nâng cấp hệ thống đê, kè nâng cao hiệu quả phòng lũ. Và ngay khi mới bước vào sản mùa khô năm 2010 tỉnh đã cấp hơn 43 tỷ đồng kinh phí chống hạn khẩn cấp để tập trung nạo vét, tu sửa, xây dựng mới các trạm bơm tưới, trạm bơm tạm bảo đảm nguồn nước tưới cho sản xuất…
Trong ngành trồng trọt tiến hành chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển giao những giống cây có khả năng chống chịu hạn, nhiệt độ cao. Chủ trương đổi mới cơ cấu giống lúa của tỉnh manh nha từ những năm cuối thế kỷ 20, sau đó được thể hiện bằng Nghị quyết số 09 của tỉnh về tăng cường sử dụng các giống lúa năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Nó thực sự trở thành ấn tượng khi Tỉnh ủy Bắc Ninh đã ban hành công văn số 462-CV/TU, ngày 29- 10- 2007 “về chủ trương cải tạo cơ cấu giống lúa”, với mục tiêu: Đến năm 2010 tăng diện tích lúa lai từ 6% (năm 2007) lên 30% tổng diện tích lúa, tăng diện tích lúa chất lượng từ 13,6% (năm 2007) lên 30%, diện tích còn lại được gieo cấy bằng các giống lúa thuần, áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh để đưa năng suất lúa bình quân toàn tỉnh lên 60 tạ/ha. Đây thực sự là đòn bẩy quan trọng để đưa năng suất lúa của Bắc Ninh sánh ngang và cao hơn các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
Ngay sau khi có chủ trương này, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ sản xuất như: hỗ trợ 50% giá giống cho toàn bộ diện tích gieo cấy lúa lai, 70% giá giống cho diện tích gieo cấy lúa chất lượng cao có quy mô 5ha trở lên, hỗ trợ công chỉ đạo sản xuất... Trong quá trình thực hiện, UBND tỉnh và các huyện, thành phố, thị xã cũng có nhiều văn bản chỉ đạo lịch gieo trồng phù hợp với điều kiện thời tiết hàng năm và khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong việc mở rộng diện tích lúa lai, lúa chất lượng cao... Nhiều tập đoàn giống lúa mới, năng suất, chất lượng được qua khảo nghiệm đã được bổ sung vào cơ cấu giống lúa của tỉnh như: PTE1, D.ưu 6511, Q.ưu 1, Nghi hương 2308, TL2, TL6, PD2, BN4, XT27,XT28,XT33, Hương cốm, nếp 9603, N87, N97… Đến nay, diện tích lúa lai trong toàn tỉnh đã đạt hơn 22.300 ha, chiếm 30% tổng diện tích gieo cấy. Năng suất lúa lai bình quân đạt 71 tạ/ha.
Theo ông Vũ Minh Hiếu, Trưởng phòng Trồng trọt (Sở NN và PTNT): “Để có được thành quả này ngoài chủ trương chỉ đạo đúng của tỉnh, lựa chọn giống cây trồng thích nghi với hình thái thời tiết ấm dần lên, thì biện pháp kỹ thuật cũng đóng vai trò hết sức quan trọng điều kiện biến đổi khí hậu. Đó là việc nắm bắt tình hình thời tiết, chỉ đạo lịch thời vụ sát và phù hợp với đặc tính sinh trưởng của cây trồng. Trong trường hợp thời tiết ấm phải đẩy lùi thời gian gieo mạ xuân, còn thời tiết rét tiến hành che phủ nilon cho mạ vừa tác dụng chống rét, lại ngăn chặn rầy nâu xâm nhập. Với việc phòng các đối tượng sâu bệnh hại lúa, thực hiện cày ải sớm, vệ sinh đồng ruộng tiêu diệt các tàn dư, hạn chế bệnh lùn sọc đen…”.
Không chỉ có lúa, chương trình phát triển cây màu, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày được đẩy mạnh, phù hợp với điều kiện sinh thái. Đã chuyển giao kỹ thuật, xây dựng mô hình đưa các loại giống cây trồng mới (giống lạc TQ1, L18, MD7, ngô LVN4, B9681, HQ2000, khoai tây Diamant, Mariella, KT3, đậu tương DT99, DT12, cà chua BM199, Trang Nông, VT3, HT6… Các tiến bộ kỹ thuật che phủ nilon, kỹ thuật trồng đậu tương đông trên đất 2 lúa bằng biện pháp làm đất tối thiểu, bảo quản giống khoai tây bằng kho lạnh, nhân giống sạch bệnh bằng phương pháp cấy mô… đã góp phần đưa năng suất lạc tăng từ 18,3 tạ/ha năm 2006, lên 21,3 tạ/ha năm 2010. Chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ nông dân xây dựng được 14 mô hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao với hơn 65.000m2 nhà lưới, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, đưa hiệu quả sản xuất rau, hoa đạt từ 150 triệu đồng đến 1 tỷ đồng/ha/năm. Các tiến bộ kỹ thuật về giống, biện pháp thâm canh đã góp phần quan trọng nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và hiệu quả sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng, hình thành nhiều vùng sản xuất tập trung, tạo tiền đề để phát triển chương trình cơ giới hoá nông nghiệp. Đồng thời xây dựng các mô hình nông nghiệp ven đô thị theo hướng sinh thái, bền vững, từng bước công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
Do nhu cầu của phát triển, diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp, việc Bắc Ninh vẫn giữ vững và phát triển ngành trồng trọt trong hoàn cảnh biến đổi khí hậu là một thành quả có ý nghĩa chiến lược. Làm được điều này không những chúng ta bảo đảm vấn đề an ninh lương thực, mà còn mang lại giá trị cao cho người nông dân. Và chúng ta có thể tự hào rằng Bắc Ninh không chỉ có các KCN tập trung quy mô, hiện đại, mà Bắc Ninh đã và đang bước vào thực hiện một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa giá trị cao với sự gắn kết của “4 nhà”. Với mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới trên cơ sở tích tụ đất đai, cơ giới hóa, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng suất, chất lượng nông sản thực phẩm và khả năng cạnh tranh cao, tạo diện mạo mới cho các vùng nông thôn, góp phần xây dựng hình ảnh một Bắc Ninh năng động và hội nhập.
Mùa xuân mới lại về và mang đến nhiều niềm tin, những ước vọng tốt đẹp đang đón chờ phía trước. Hy vọng Bắc Ninh cùng với cả nước và cộng đồng quốc tế sẽ thích ứng được với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, để duy trì những cánh đồng bạt ngàn xanh tốt, thể hiện bản lĩnh không chịu khuất phục của con người Việt Nam trước thiên nhiên.
Theo BBN