Ô nhiễm môi trường là vấn đề nan giải
của nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Trong
những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm
trọng và phổ biến dẫn tới suy thoái môi trường đất, nước,không khí, đặc
biệt là tại các đô thị lớn lượng chất thải rắn (CTR) – rác – ngày càng
gia tăng cùng với tốc độ gia tăng dân số và đô thị hóa.
Theo thống kê, tại thành phố Cần Thơ tổng lượng rác thải sinh ra khoảng 795 tấn rác tươi/ngày vào:
- Năm 2006, năm 2007 tổng lượng rác thải sinh ra là: 800 tấn rác tươi/ngày (Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ, 2008).
- Năm 2008 con số này là 843 tấn rác tươi/ngày hay khoảng 310 ngàn tấn rác tươi/năm, chưa kể rác công nghiệp, rác y tế và rác độc hại.
Nếu tính thành thể tích thì tương
đương 1 triệu m3 rác tươi/năm, lượng rác này nếu đổ thành lớp nén chặt
dày 0,5m thì phải cần 500 ngàn m2 (Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố
Cần Thơ, 2009). Trong khi đó Cần Thơ hiện nay hoàn toàn không có bãi
rác đúng tiêu chuẩn, hay nhà máy xử lý rác hợp qui định. Do đó, vấn đề
quản lý CTR đã trở thành vấn đề bức xúc và cần được quan tâm đúng mức
hơn.
Ngày nay GIS được ứng dụng phổ biến trong việc quản lý và xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường. Ví dụ như ứng dụng GIS/GPS trong quan trắc và quản lý chất thải rắn nhằm phân tích dựa trên vị trí các nguồn thải,
chế độ thủy văn, địa hình đất gió, đường xá,… để quy hoạch tuyến vận
chuyển, nơi tập trung, nơi xử lý chất thải,... Có nhiều công trình
nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của GIS trong việc quản lý và qui hoạch các vấn đề liên quan quản lý đô thị.
Trong số đó, Nguyễn Tiến Hoàng et al. (2010) đã nghiên cứu hai vấn đề:
xây dựng cơ sở dữ liệu GIS về hệ thống thu gom CTR và ứng dụng GIS thử
nghiệm sắp xếp lại hệ thống thùng rác hiện tại. Đây là căn cứ quan trọng
để thành phố tiến hành điều chỉnh quy hoạch mạng lưới thu gom CTR hợp
lý. Một nghiên cứu điển hình khác của Bruce Gordon Wilson và Julie K
Vincent (2007) cũng sử dụng thiết bị GPS thu thập dữ liệu và đánh giá
hiệu quả hoạt động của trạm trung chuyển.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hiện trạng hệ thống thu gom và trung chuyển CTR ở thành phố Cần Thơ
Trước đây thành phố thu gom CTR vào
ban ngày, nhưng theo kế hoạch hành động số 28 ban hành ngày 12 tháng 12
năm 2006 thì trên địa bàn quận Ninh Kiều chuyển sang thu gom CTR trong
dân vào ban đêm. Việc thu gom CTR diễn ra định kỳ hàng ngày, bắt đầu lúc
18:00 và kết thúc lúc 22:00 (riêng tuyến Nguyễn Văn Cừ nối dài, Trần
Hoàng Na, Tầm Vu,… thu gom từ 8:00 – 15:00).
Hình 1: Qui trình thu gom chất thải rắn từ sinh hoạt ở thành phố Cần Thơ
Hình 1 mô tả qui trình thu gom CTR
sinh hoạt ở thành phố Cần Thơ, CTR được các hộ dân bỏ vào thùng chứa
chuyên dụng hoặc thùng chứa tạm, túi nilong,… trước khi đổ vào xe rác.
Các phương tiện thu gom CTR chính hiện
nay ở thành phố Cần Thơ bao gồm ba loại: (i) xe đẩy tay dung tích 660L –
xe loại 1, (ii) xe kéo tay dung tích 1.000L – xe loại 2, và (iii) xe
kéo có gắn động cơ dung tích 1.000L – xe loại 3 (Hình 2).
Hiện trạng trung chuyển CTR có nhiều
bất cập, các xe thu gom thực hiện trung chuyển tại các điểm hẹn trên
đường, các xe này nối đuôi nhau chờ đợi rất lâu tại điểm hẹn gây cản trở
giao thông, ảnh hưởng không tốt đến môi trường xung quanh. Do đó, việc
xây dựng và sử dụng trạm trung chuyển là rất cần thiết trong điều kiện
hiện nay.
Địa điểm, đối tượng và thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: các tuyến đường
gần khu vực trạm trung chuyển hẻm 190 đường 30/4, phường Hưng Lợi- quận
Ninh Kiều- thành phố Cần Thơ được chọn làm địa điểm nghiên cứu (Hình 3).
Đối tượng nghiên cứu: đề tài khảo sát
35 xe kéo tay di chuyển trên phạm vi những tuyến đường trong khu vực
nghiên cứu kể trên. Phường Hưng Lợi với diện tích là 3,418 km2, dân số
34.973 người và mật độ dân số là 10.232 người/km2
Phương pháp lấy số liệu
Số liệu thứ cấp: kế thừa các kết quả
nghiên cứu có liên quan tại thành phố Cần Thơ cũng như số liệu từ công
ty Công trình Đô thị: Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án đầu
tư lắp đặt hệ thống thùng ép rác kín và xây dựng điểm trung chuyển rác
hẻm 190 đường 30/4 phường Hưng Lợi-quận Ninh Kiều (Công ty Công trình
đô thị, 2006), Báo cáo diễn biến chất lượng môi trường Thành phố Cần Thơ
10 năm (1990 – 2008) (Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ,
2009),...
Số liệu sơ cấp bao gồm các đo đạc
tại hiện trường. Ứng dụng thiết bị GPS (Hình 4A) gắn trực tiếp trên
các phương tiện thu gom và vận chuyển nhằm ghinhận thông tin đường đi,
thời gian, khoảng cách, vận tốc,… mỗi giây của các hoạt động trong hệ
thống thu gom và trung chuyển CTR bằng xe kéo tay. Ngoài ra, tác giả còn
thu thập số liệu thông qua khảo sát thực tế bằng nhiều cách tiếp cận
khác nhau như: đồng hồ điện tử, máy quay phim, bảng phỏng vấn ngắn,...
Phương pháp phân tích
Đồng hồ bấm tay giúp xác định các mốc
thời gian: xuất phát, dừng tại điểm hẹn, bắt đầu đổ/trung chuyển, kết
thúc đổ/trung chuyển và thời điểm kết thúc ca làm việc tại nơi cất xe
kéo tay. Các số liệu lưu trên GPS được phân tích theo các khoảng thời
gian, các mốc thời gian của đồng hồ bấm tay để phân tích và tính toán
thống kê các hoạt động chi tiết của quá trình thu gom và trung chuyển
CTR.
Thiết bị GPS cung cấp hệ thống dữ liệu
tọa độ, thời gian, khoảng cách và vận tốc theo mỗi giây. Các dữ liệu
này có thể dễ dàng thể hiện và phân tích trên các phần mềm GIS (Mapinfo,
ArcGis, QGIS,…) với hệ quy chiếu trắc địa Longtitude/Latitude (WGS 84-
World Geodetic System) lưới chiếu tọa độ phẳng UTM (Universal
Transverse Mercator) hoặc có thể dễ dàng thể hiện vị trí hoặc tuyến
đường trên Google Earth. Hình 4 thể hiện một đoạn lộ trình thu gom của
một Tạp chí Khoa học 2011:20b 1-11 Trường Đại học Cần Thơ 6 xe kéo
tay trên Google Earth (Hình 4B), QGIS (Hình 4C) và Mapinfo phiên bản
10.0 (Hình 4D). Rõ ràng số liệu thu được từ các máy GPS giúp ta dễ dàng
minh họa, quan sát, phân tích và tính toán trên bảng đồ đã được số hóa
bởi các phần mềm GIS thông dụng hoặc các cơ sở dữ liệu thuộc tính khác
(ví dụ Google Earth).
Ngoài ra, các tính toán chính và phân tích trong bài viết này tác giả sử dụng phần mềm Excel.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Nghiên cứu đã ứng dụng GIS và GPS để
hổ trợ công tác quan trắc hệ thống thu gom và trung chuyển CTR nhằm tạo
điều kiện thuận tiện cho người quản lý đánh giá hiệu quả hoạt động của
hệ thống hiện tại. Qua đó phân tích những khó khăn và thuận lợi của hệ
thống hiện tại làm cơ sở cho những nghiên cứu chuyên sâu trong tương
lai. Kết quả cho thấy, để thu gom 1m3 CTR thì xe loại 1 (660L) sử dụng
thời gian ít nhất kế đến là xe loại 2 (1.000L) và thời gian lâu nhất
thuộc về xe loại 3 (1.000L- có gắn động cơ). Khoảng cách thu gom 1m3 CTR
của xe loại 1 ngắn nhất, tiếp đến là xe loại 2 và xe loại 3 thì dài
nhất. Trung bình ba loại xe mỗi chuyến thực hiện trung chuyển mất
1,1±0,9 phút nhưng thời gian đợi ở mỗi điểm hẹn khá lâu là 46,6±37,3
phút (lâu nhất lên đến 187,8 phút), trong khi đó thời gian trung bình
cho một chuyến thu gom chỉ là 42,8±20,3 phút. Trong thời gian khảo sát
tổng thời gian một chuyến có khi lại kéo dài đến 320,9 phút tức hơn 5
giờ tuy thời gian thực sự dành cho thu gom không nhiều. Điều này làm
giảm năng suất lao động đồng thời gây ô nhiễm, mất mỹ quan và lây lan
dịch bệnh tại các điểm hẹn trên
Nguồn: eKGIS