Yêu cầu thay đổi trong thiết kế đô thị là thực sự cần thiết để giúp
thích ứng với các điều kiện khí hậu biến đổi. Những thay đổi đã được dự
báo trong mô hình mưa và nhiệt đặt ra yêu cầu phải thay đổi các phương
pháp đang được áp dụng tại hầu hết các đô thị trong việc thu gom nước
mưa, giải quyết các vấn đề về nhiệt, và duy trì đa dạng sinh học. Gramae
giới thiệu ý tưởng rằng việc áp dụng các phương pháp thiết kế đô thị
bền vững mới như “cơ sở hạ tầng xanh” sẽ tạo dựng một đô thị bền vững và
có chất lượng sống tốt hơn. Một yếu tố có lợi thường bị bỏ qua trong
thiết kế đô thị là tận dụng hình dạng 3-D của mái nhà và tường để bố trí
các hệ thống tự nhiên này. Việc này sẽ giúp giảm nhẹ áp lực về quỹ đất
quí giá trong đô thị.
Người trình bày: Professor Graeme Hopkins – Giáo sự trường đại học Adelaide (Úc)
Người dịch: Trần Thị Mai Thoa – Thạc sĩ Nghiên cứu Phát triển (IHEID, Geneva, Thụy Sĩ).Email: af1909vn@gmail.com
Người review: Đinh Tiến Dũng – Thạc sĩ Quản trị Tài nguyên Nước (Đại học Adelaide, Úc). Email: dungdt812@gmail.com
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, công tác thiết kế và quy
hoạch trong các đô thị phải được thay đổi. Tốc độ biến đổi khí hậu nhanh
như hiện nay đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần phải có các quy hoạch đi
trước 10 năm; nếu không khi chung ta bắt tay vào xây dựng thật sự thì
bối cảnh khí hậu của đô thị đã rất khác, dẫn đến quy hoạch hay thiết kế
của chúng ta nhanh chóng bị lỗi thời. Trong bài viết này, chúng tôi muốn
đề cập đến một xu hướng mới trong công tác quy hoạch và thiết kế đô thị
trên thế giới, được gọi là ‘cơ sở hạ tầng xanh’. Đó là xu thế coi trọng
và tận dụng các hệ thống tự nhiên để bổ sung và tăng cường năng lực đối
phó với biến đổi khí hậu cho các công trình xây dựng trong một thành
phố. Bài viết cũng sẽ cung cấp một vài ví dụ cụ thể về những gì các kiến
trúc sư đô thị trên thế giới đã và đang bắt tay thực hiện, đặc biệt là
nhằm làm tăng mật độ cư dân trong khi vẫn duy trì các khoảng không gian
mở trong các thành phố.
Các hệ sinh thái tự nhiên trong môi trường đô thị
Việc nghiên cứu quy hoạch đô thị trong bối cảnh biến đổi khí hậu trước hết cần phải dựa trên hai giả thuyết.
Hình 1: Cân bằng nước trong môi trường tự nhiên và đô thị
|
Thứ nhất, mỗi thành phố là một hệ sinh thái. Định nghĩa đơn giản một
hệ sinh thái là một cộng đồng các sinh thể sống tương tác với các vật
thể ‘chết’. Bên trong hệ sinh thái đô thị lại có các hệ khác nhỏ hơn;
các hệ nhỏ này được coi là hệ mở do có sự trao đổi chất và năng lượng
liên tục giữa bên trong và bên ngoài, dẫn đến sự thay đổi và phát triển
theo thời gian của chúng. Đây là điều cần đặc biệt lưu tâm vì như chúng
ta đã biết, biến đổi khí hậu làm tăng tốc quá trình thay đổi này – vốn
trước đây diễn ra trong 1 quãng thời gian rất dài – buộc chúng ta phải
tìm cách ứng phó nhanh hơn.
Thứ hai, mỗi thành phố là một lưu vực hứng và trữ nước. Trong điều
kiện môi trường tự nhiên, sẽ có khoảng 27% lượng nước mưa chảy tràn
(runoff) trên bề mặt và 20% dưới dạng dòng chảy ngầm (baseflow)[1].
Như vậy khả năng cấp nước của lưu vực tự nhiên là khoảng 47% lượng nước
mưa. Nhưng trong môi trường xây dựng nhân tạo như một thành phố, dòng
chảy ngầm chỉ chiếm khoảng 5% do rất ít nước thấm được qua mặt đất,
trong khi lượng nước chảy tràn lại chiếm đến tận 58%. So sánh khả năng
cấp nước của hai lưu vực (63% trong môi trường đô thị so với 47% trong
môi trường tự nhiên), ta sẽ thấy tầm quan trọng của việc tận dụng lượng
nước chảy tràn rất lớn trong đô thị. Vấn đề đặt ra là làm sao có thể giữ
được lượng nước này để tái sử dụng. Như trình bày trong phần sau của
bài viết này, chúng ta sẽ có thể thiết kế mái nhà, tường để tăng cường
khả năng trữ nước của một thành phố, thu gom và chứa nước mưa dưới vỉa
hè để sau đó xử lý và tái sử dụng, sử dụng thảm thực vật ở mặt đất như
những tấm lọc sinh học v.v…
Hình 2: Minh họa khái niệm ‘cơ sở hạ tầng xanh’
|
Những mái nhà, tường hoặc vỉa hè được thiết kế như vậy được coi là
‘cơ sở hạ tầng xanh’, một cụm từ đang được sử dụng ngày càng phổ biến
trên toàn thế giới. Vậy ‘cơ sở hạ tầng xanh’ là gì? Có thể hiểu một cách
đơn giản, đó là việc ứng dụng các hệ thống tự nhiên trong môi trường đô
thị để thay thế hoặc bổ sung cho hệ thống cơ sở hạ tầng nhân tạo, qua
đó cung cấp các tiến trình tự nhiên trong việc vận chuyển nước và xử lý
nước bị ô nhiễm. Trong một thành phố, chúng ta không thể xây mới hoàn
toàn lại từ đầu hệ thống cơ sở hạ tầng vì như thế sẽ rất tốn kém. Khi đó
giải pháp tất yếu sẽ phải là sử dụng các hệ thống sinh thái tự nhiên để
tăng cường năng lực của hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có. Giải pháp này
sẽ mang lại lợi ích lớn về mặt chi phí cho các thành
phố.
Xử lý nước mưa trong điều kiện biến đổi khí hậu
Chúng ta cùng thử xem xét một ví dụ cụ thể trong trường hợp xử lý
nước mưa. Trong phần trên của hình 3, phần màu tím thể hiện lượng nước
mưa và nước chảy tràn ở mức thông thường trên các bề mặt cứng hóa trong
thành phố. Chuyện gì sẽ xảy ra khi mưa trở nên to hơn do biến đổi khí
hậu? Khi cường độ mưa tăng lên nhiều hơn mức thông thường, mực nước sẽ
dâng cao đến cả phần màu xanh trong hình vẽ. Nếu năng lực của hệ thống
thoát nước không được cải thiện, chúng ta sẽ dễ lâm vào tình trạng ngập
lụt nghiêm trọng. Phần dưới của hình 3 minh họa cơ chế để giải quyết vấn
đề này. Chúng ta sẽ làm giảm lượng nước dồn lên các khu vực đã bị cứng
hóa về mức như khi mưa bình thường bằng việc để cho nước thấm xuống lớp
đất phía dưới qua các tấm lọc sinh học[2]. Trong hình 4 là một thiết kế kiểu này đã được thực hiện ở thành phố Melbourne (Úc).
Hình 3: Xử lý lượng nước mưa tăng đột biến do biến đổi khí hậu
Hình 4: Ứng dụng tấm lọc sinh học trong xử lý thoát nước ở Melbourne (Úc)
Hệ thống cây xanh đô thị
Một ví dụ khác về ‘cơ sở hạ tầng xanh’ chính là cây xanh trong thành
phố. Như chúng ta biết, cây xanh là một hệ thống tự nhiên, chúng đóng
vai trò như các máy bơm hút nhiệt. Bên dưới tán lá cây luôn diễn ra sự
đối lưu không khí nhờ quá trình thoát hơi ẩm qua tán lá gây ra sự chênh
lệch độ ẩm và áp suất không khí. Chúng ta có thể ứng dụng hiện tượng
này bằng cách trồng các cây nhận tạo cỡ lớn có khả năng hút không khí
nóng đến 40oC. Hơi nước được phun vào giúp làm giảm nhiệt độ không khí.
Nhờ sự thay đổi áp suất và hiệu ứng ‘ống khói ngược’[3],
lớp không khí đã được làm mát được chuyển xuống dưới giúp làm giảm
nhiệt độ không khí dưới mặt đất xuống còn khoảng 25oC. Ở Singapore,
người ta đang nghiên cứu áp dụng kĩ thuật này vào xây các công viên nằm
dọc theo các hải cảng; người Singapore thậm chí còn định trồng những cây
nhân tạo với kích thước cao ngang một tòa nhà bảy tầng. Đây thực chất
là một kĩ thuật đã có từ rất lâu đời. Nếu bạn có dịp đến thăm tòa nhà
quốc hội ở Canberra, trong sân các tòa nhà của Thượng Viện và Hạ Viện
nước Úc đều có trồng các cây nhân tạo rất to được thiết kế để giúp điều
hòa không khí. Thiết kế tương tự cũng được áp dụng ở tòa nhà của bộ Tài
Chính Úc.
Hình 5: Mô hình cây điều hòa không khí
Hãy cùng xem xem ta có thể áp dụng kĩ thuật này vào một trường hợp cụ
thể là các khu mua sắm ngoài trời như thế nào. Khi nhiệt độ tăng cao,
người dân sẽ ít viếng thăm các khu mua sắm ngoài trời hơn do lo sợ bị
ung thư da. Họ sẽ có xu hướng ghé vào các khu mua sắm trong nhà hơn do ở
đó thường có điều hòa không khí nên mát mẻ và dễ chịu hơn. Tuy nhiên so
với những khu mua sắm ngoài trời, những khu mua sắm trong nhà lại có
một nhược điểm về mặt xã hội; do thường được xây trên đất tư nên có thể
xảy ra tình trạng là nhiều nhóm dân cư trong xã hội sẽ không được phép
đặt chân vào những khu mua sắm trong nhà như vậy. Ta có thể làm gì để
giải quyết tình trạng này bằng cách áp dụng kĩ thuật đã nêu ở trên?
Hình 6: Ứng dụng làm mát không khí ở khu mua sắm ngoài trời Rundle Mall (Úc)
Với một thiết kế mái che như trong hình 6, nước mưa tích lại trên mái
che sẽ được dẫn xuống và trữ lại dưới lớp gạch lát đường. Các tấm pin
mặt trời được gắn trên mái che sẽ giúp bơm lượng nước trữ ở phía dưới
mặt đường ngược trở lên mái che, phun nước ra xung quanh dưới dạng sương
mù để làm giảm nhiệt độ không khí và hiệu ứng ‘ống khói ngược’ sẽ đưa
luồng không khí mát này đi xuống và điều hòa nhiệt độ trong khu mua sắm
ngoài trời. Nếu chúng ta duy trì liên tục như vậy, nhiệt độ trong khu
vực xung quanh sẽ được giảm xuống đáng kể. Bằng cách đó, chúng ta có thể
thu hút khách mua sắm quay trở lại, mang lại lợi ích thương mại cho các
doanh nghiệp. Trong hình trên là thiết kế đã được lắp đặt tại Rundle
Mall, khu mua sắm trung tâm ở thành phố Adelaide thuộc bang Nam Úc.
Nếu biết kết hợp các hệ thống tự nhiên như vậy với nhau, chúng ta có
thể đạt được nhiều mục đích cùng một lúc như vừa xử lý ô nhiễm vừa tích
trữ được nước mưa. Dưới đây là phác thảo ý tưởng một dự án đang được
tiến hành ở trường đại học Nam Úc. Như ta thấy, ta có thể cùng một lúc
xử lý được nước mưa, tích trữ lại lượng nước mưa ấy trong lớp sỏi dưới
lớp gạch lát vỉa hè; đồng thời dùng các cây thân gỗ thẳng để mang lại
bóng mát, giảm tác động của hiện tượng ‘đảo nhiệt đô thị[4]’,
làm mát khu vực vỉa hè, và cuối cùng, ta có thể dẫn nguồn nước được
tích trữ dưới vỉa hè vào trong các tòa nhà bên cạnh để tái sử dụng. Cũng
với những tác dụng tương tự – trữ nước và làm mát không khí – là các
thiết kế ‘tường sống’ và ‘mái nhà xanh’.
‘Mái nhà xanh’
Ưu điểm lớn của ‘mái nhà xanh’ là việc chúng ta có thể thiết kế mái
nhà loại này theo bất kì hình dạng nào chúng ta mong muốn. Các kĩ thuật
hiện có hoàn toàn cho phép chúng ta làm được điều này dễ dàng. Trong ảnh
dưới dây là mái nhà Việc Công Nghệ California; họ đã tận dụng địa hình
của mái nhà để điều hòa không khí cho tòa nhà. Như vậy có thể thấy là có
rất nhiều lợi ích từ ‘mái nhà xanh’ cho một tòa nhà cao tầng, vừa làm
tăng bóng mát và khả năng cách nhiệt lại làm giảm chi phí năng lượng.
Thực tế chỉ cần giảm được một phần nhỏ mức tiêu thụ năng lượng trong các
tòa nhà như vậy thì chúng ta đã có thể có được những khoản tiết kiệm về
mặt chi phí khá lớn. Một ‘mái nhà xanh’ có đủ khả năng làm mát cho
khoảng ba tầng nhà đầu tiên. Dễ thấy là kể cả khi đã có mái nhà xanh,
các mặt bên của tòa nhà vẫn bị ánh nắng chiếu vào trực tiếp. Và đó là lí
do chúng ta cần kết hợp thêm ‘tường sống’ vào thiết kế các tòa nhà
trong đô thị, sẽ đề cập đến trong phần sau của bài này.
Hình 8: Minh họa mái nhà xanh
Một câu hỏi đặt ra là có những hệ thống sinh thái tự nhiên nào có thể
được áp dụng trong thiết kế ‘mái nhà xanh’. Một lựa chọn là ta có thể
sử dụng hệ thống làm mát bằng cây xanh; trồng cây xung quanh các tấm
kính năng lượng mặt trời sẽ làm tăng hiệu quả của các tấm kính này lên
thêm 20% so với ở mái nhà bình thường. Đây là kết quả năm năm nghiên cứu
của các nhà khoa học Đức; nếu chúng ta làm tăng hiệu suất của các tấm
kinh quang điện lên thêm 20% thì rõ ràng đây là một nguồn lợi lớn, có
thể thu hút các doanh nghiệp đầu tư.
Hình 9: Các thiết kế khác nhau với mái nhà xanh
|
Một lựa chọn khác là ta sẽ thiết kế mái nhà theo kiểu đất ngập nước.
Phần dưới của hình 9 là mái nhà của một nhà máy ở Đức; nước từ dây
chuyền sản xuất sẽ được dẫn lên mái nhà, tưới cho cây trên mái nhà rồi
quay trở lại dây chuyền sản xuất. Một lợi ích khác của thiết kế kiểu này
là chúng ta sẽ tận dụng được diện tích mái nhà để thay thế các vùng đất
ngập nước ở dưới mặt đất. Trong điều kiện thực tế của một thành phố
theo mô hình nhỏ gọn[5],
diện tích mặt đất là rất quý giá và nên được tiết kiệm để dành làm các
chức năng khác. Thiết kế như đã nói sẽ cho phép chúng ta tranh thủ được
diện tích mái nhà mà vẫn đạt được mục đích ban đầu.
‘Tường sống’
Hình 10: Phác thảo thiết kế ‘tường sống’
|
Như đã nói ở trên, bên cạnh ‘mái nhà xanh’, chúng ta cũng rất cần
quan tâm đến thiết kế các ‘tường sống’. Tường của các tòa nhà trong một
thành phố không chỉ làm nên diện mạo về mặt thẩm mỹ của đô thị đó mà còn
có tiềm năng lớn giúp tiết kiệm mức tiêu thụ năng lượng trong các tòa
nhà. Rõ ràng với một tòa nhà càng nhiều tầng, càng có thêm nhiều diện
tích để ta có điều kiện áp dụng các thiết kế mới. Dĩ nhiên, sẽ có nhiều
khó khăn về mặt kỹ thuật nhưng không phải là không thể. Các kỹ thuật mới
vẫn đang tiếp tục được phát triển với chi phí ngày càng giảm.
Các bức ‘tường sống’ cũng có hiệu quả tương tự như ‘mái nhà xanh’ như
giúp giảm hiện tượng ‘đảo nhiệt đô thị’. Hình 11 bên trái minh họa một
tòa nhà nhiều tầng trong đó ‘tường sống’ của nó được sử dụng như một lớp
lọc sinh học. Nước xám (greywater)[6]
sẽ được dẫn từ tầng trên, chảy qua hệ thống, trở thành nước sạch và
được dẫn xuống để tái sử dụng ở tầng bên dưới; quy trình diễn ra như một
‘thác nước’. Hình 11 bên phải là ảnh một bức tường trong một công ty
bảo hiểm ở Canada, dưới chân tường là bể cá. Nước ở trong bể cá sẽ được
quay vòng dẫn lên trên nóc của bức tường sống và từ đó chảy dần xuống
theo mô phỏng ‘thác nước’ đã miêu tả ở trên. Trong quá trình ấy, các
chất dinh dưỡng trong nước sẽ được hấp thụ bởi các cây trồng trên bức
tường còn nước sạch sẽ quay trở lại bể cá lúc đầu. Vòng tuần hoàn cứ thế
tiếp tục.
Hình 11: Ứng dụng ‘tường sống’ mô phỏng thác nước với bể cá ở chân tường (Canada)
Kết hợp ‘mái nhà xanh’ và ‘tường sống’
Nếu chúng ta đồng bộ hóa các mảng xanh trên tường và mái nhà, ta sẽ
có một hệ thống tích hợp đồng bộ từ mặt đất đến mái nhà, giúp làm giảm
mức tiêu thụ năng lượng, hình thành các vành đai xanh trong thánh phố,
giảm dòng chảy tràn do mưa, và tăng mảng xanh đô thị.
Hình 13 là một công trình rất nổi tiếng ở tỉnh Fukuoka của Nhật Bản.
Ta tưởng tượng nếu xung quanh các quảng trường trong thành phố mà chúng
ta xây dựng một vành đai các tòa nhà hình bậc thang như thế này, ta sẽ
làm tăng diện tích mảng xanh trong mỗi khu vực quảng trường ấy lên gấp
bốn hay sáu lần, từ đó cũng làm tăng khả năng làm mát thành phố lên gấp
nhiều lần.
Hình 12: Phác thảo kết hợp ‘mái nhà xanh’ và ‘tường sống’
|
Hình 13: Nhà bậc thang, tích hợp mảng xanh từ mặt đất đến mái nhà ở Nhật Bản
|
Ta thậm chí có thể tiến xa hơn một bước nữa bằng việc áp dụng thiết
kế kiểu ‘hệ sinh thái trên cao’ (bushtop), nghĩa là khi chúng ta tiến
hành xây dựng một tòa nhà mới, ta sẽ thiết kế các mảng xanh trên mái nhà
và tường nhà với một hệ thực vật và động vật làm sao cho hệ sinh thái
mới này giống hệt như hệ sinh thái ta từng có trên mặt đất nơi đó, trước
khi có các hoạt động xây dựng của con người.
Với thiết kế này, ta thậm chí có thể thiết lập cả một hệ thống sinh
thái hoàn chỉnh trên các mái nhà và tường trong khu vực đô thi. Các loài
côn trùng và chim trong một thành phố luôn có những tuyến di cư nhất
định của chúng; việc thiết lập các hành lang sinh thái[7]
nhân tạo sẽ giúp khôi phục các tuyến di cư tự nhiên này vốn bị ảnh
hưởng do hoạt động xây dựng của con người. Thiết kề này dựa trên lý
thuyết ‘siêu dân cư’ (meta-population theory) do nhà nghiên cứu Paul
Ehrlich phát triển giữa những năm 70 của thế kỉ trước. Các hành lang
sinh thái không bắt buộc phải liên tục trong không gian mà có thể được
thiết lập theo kiểu “bàn đạp” (stepping stone corridor)[8],
miễn là khoảng cách giữa các “bàn đạp” (mái nhà) vẫn nằm trong tầm bay
của các loài sinh vật để chúng có thể di chuyển qua lại và cư ngụ trong
các môi trường sinh thái nhân tạo trên đó.
Hình 15: Phác thảo thiết kế chuỗi ‘hành lang sinh thái trên cao’ trong thành phố
Ứng dụng làm tăng mật độ dân cư và diện tích mảng xanh đô thị
Trong một thành phố theo mô hình nhỏ gọn, với mật độ dân cư lớn, một
thách thức là làm sao tăng được các khoảng không gian mở. Hình vẽ số 1
của hình 16 minh họa không gian mở và diện tích mảng xanh ta có trong
điều kiện tự nhiên. Trong hình vẽ số 2, khi ta xây nhà kiểu bình thường,
không gian quanh nơi ở chỉ còn giữ lại khoảng 25-30% mảng xanh tự
nhiên. Tuy nhiên nếu ta tiến hành phủ xanh tường và mái nhà, tạo ra các
‘tường sống’ và ‘mái nhà xanh’, chúng ta sẽ vừa tạo ra thêm khoảng không
gian mở mà lại có thêm đất trống để xây thêm một hoặc hai tòa nhà. Như
các hình vẽ 3 và 4 cho thấy, chúng ta có thể làm tăng mật độ xây dựng
lên thêm ba đến bốn lần trong khi cũng làm tăng thêm diện tích mảng
xanh trong không gian mở của khu vực sinh sống thêm 25%. Chỉ cần một
phép tính đơn giản diện tích tường và nhà có thể phủ xanh là ta sẽ thấy
rõ ràng tiềm năng tạo ra thêm không gian mở và tăng mảng xanh cho thành
phố như thế nào nhờ những thiết kế đã nói ở trên. Tuy nhiên các thiết kế
này vẫn có điểm hạn chế là không tạo được tầng đất sâu cho các cây lớn.
Ta sẽ tham khảo thêm một ví dụ khác trong điều kiện khu vực ngoại ô
của các thành phố. Hình vẽ bên trên của hình 17 là một ngôi nhà điển
hình ở các vùng ngoại ô; ở bên cạnh ta để ý thấy có một hàng rào. Hàng
rào này là nơi sinh sống của các loài chim cỡ bé để trốn sự dòm ngó của
các loài chim săn mồi lớn vốn sống nhiều ở các đồng cỏ trống xung quanh
khu vực ngoại ô. Khi chúng ta tăng mật độ xây dựng lên bằng cách xây
thêm một ngôi nhà thứ hai vào bên cạnh, hàng rào ta vừa nói dĩ nhiên sẽ
buộc phải bị dỡ bỏ. Nơi sinh sống của các loài chim nhỏ như thế sẽ bị
hủy diệt. Tuy nhiên bằng việc phát triển các ‘tường sống’ và ‘mái nhà
xanh’, ta hoàn toàn có thể tái tạo lại hệ cây cối, chim chóc vốn sống
trên dãy hàng rào trước kia. Như vậy ta vừa tăng thêm mật độ xây dựng mà
vẫn duy trì được hệ sinh thái vốn có quanh nơi ở của con
người.
Đồng bộ hóa hệ thống mảng xanh trong không gian xây dựng đô thị
Nếu chúng ta áp dụng triệt để các thiết kế đã nói ở trên với ‘mái nhà
xanh’, ‘tường sống’, ban công xanh, công viên, kết nối không gian đường
phố với mặt tiền các tòa nhà, v.v… chúng ta có thể tạo ra một hệ thống
không gian xanh mở ba chiều, khác với tư duy thiết kế truyền thống trên
nguyên tắc không gian hai chiều chúng ta vốn quen thuộc.
Các nghiên cứu hiện vẫn đang được tiến hành và có tiềm năng sẽ cho ra
được kết quả sau một hoặc hai năm. Khi đó chúng ta có thể tiến tới xây
dựng một vành đai xanh quanh thành phố, đặc biệt là phủ xanh các công
trình tại vị trí trọng yếu để vừa làm giảm hiệu ứng ‘đảo nhiệt đô thị’
vừa làm giảm lượng khí thải CO2 trong thành phố.
Cuối cùng, cần phải nhấn mạnh một lần nữa rằng mái nhà của các công
trình xây dựng trong thành phố, vốn thường là khoảng không gian mở bị bỏ
phí, thực ra có thể mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích khác nhau.
Như vậy khi tiến hành thiết kế mái nhà, có bốn nhóm yếu tố chúng ta phải
quan tâm. Về mặt môi trường, như đã nói ở trên, chúng ta thiết kế các
‘mái nhà xanh’, ‘hệ sinh thái trên cao’ hay ‘hành lang sinh thái trên
cao’, v.v… nhằm tăng khả năng thích ứng với các biến đổi khí hậu trong
các đô thị. Về mặt đời sống, mái nhà trong các khu chung cư sẽ cung cấp
thêm diện tích mảng xanh cho các cư dân sống trong khu chung cư đó. Về
mặt kinh tế, trên tầng thượng của các khu trung tâm thương mại, chúng ta
có thể thiết kế các rạp chiếu phim hay nhà trông trẻ đi kèm với sân
chơi có mái phủ xanh. Ví dụ như các ông bố bà mẹ khi có việc phải đi vào
thành phố có thể lái xe đưa con đi cùng; sau khi cất xe vào bãi gửi xe,
họ sẽ gửi con lên nhà trẻ ở bên trên; khi nào xong việc, họ lại quay
lại và đón con. Cuối cùng là lợi ích về mặt sản xuất thực phẩm cho con
người; các mái nhà, sân thượng trong thành phố có thể được tận dụng để
trồng rau hay các cây ăn quả, qua đó mang lại một nguồn lợi kinh tế nữa
cho chúng ta.
Lời kết
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang tác động ngày càng rõ ràng đến
phát triển đô thị bền vững thì việc xem xét lại vai trò và cách tiếp cận
trong quy hoạch và quản lý đô thị là hết sức cần thiết. Quan niệm và
phương cách quy hoạch truyền thống cho rằng quy hoạch và kiến trúc có
khả năng và sức mạnh lớn lao, với sự hỗ trợ của khoa học hiện đại, công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến, trong việc cải tạo, xắp xếp lại lại tự nhiên,
nhằm tạo ra mội môi trường sống hoàn toàn theo ý muốn chủ quan của con
người. Thực tế biến đổi khí hậu toàn cầu làm cho cách tiếp cận này dễ
dẫn đến thất bại do chúng ta luôn không thể nào dự đoán chắc chắn trước
tất cả những rủi ro khí hậu. Khi mà cách tiếp cận xây dựng công trình
truyền thống không còn phù hợp, những kinh nghiệm quốc tế đã thấy rằng
việc thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua quy hoạch đô thị phải được
nghiên cứu từ bài toán quy hoạch tổng thể cho đến thiết kế chi tiết cho
từng khu đô thị, từng công trình, theo hướng mềm dẻo, tôn trọng tự
nhiên, phù hợp với đặc điểm từng khu vực cụ thể. Thay vì cố gắng giảm
tần suất rủi ro bằng các giải pháp công trình ‘cứng’ vốn nhanh chóng bị
lỗi thời dưới tác động của biến đổi khí hậu, các nguyên tắc quy hoạch và
xây dựng nhằm tận dụng các hệ thống sinh thái tự nhiên cần phải được
coi trọng trong thiết kế công trình kiến trúc, cảnh quan nhằm tăng khả
năng thích nghi với rủi ro của cư dân đô thị và giảm thiệt hại.
Tham khảo thêm:
- Ứng dụng thực tế ‘mái nhà xanh’ ở Thụy Sĩ: http://www.bbc.com/travel/slideshow/20120608-switzerlands-habitats-in-the-sky)
- Đô thị sinh thái trong phát triển đô thị Việt nam: http://ashui.com/mag/index.php/chuyenmuc/quyhoachdothi/68-quyhoachdothi/4945-do-thi-sinh-thai-trong-phat-trien-do-thi-viet-nam.html
- Giải pháp cho thành phố xanh: http://ashui.com/mag/congnghe/giaiphap/5787-giai-phap-cho-thanh-pho-xanh.html
- Chủ nghĩa đô thị xanh: http://ashui.com/mag/chuyenmuc/quy-hoach-do-thi/2000-chu-nghia-do-thi-xanh.html
[1] Lượng nước ngầm bổ sung cho nước mặt (chảy vào các kênh, rạch, v.v…)
[2]
Là lớp chắn thực vật được thiết kế xử lý dòng chảy tràn trên bề mặt,
lớp thực vật này có chức năng làm giảm tốc độ của dòng chảy, cho phép
lắng trầm tích và các loại ô nhiễm khác. Nước mưa có thể thấm qua lớp
lọc phía bên dưới, không những cung cấp khả năng xử lý ô nhiễm phân tán
cao, mà còn là khoảng không gian xanh và tươi mát cho cộng đồng dân
cư. (Nguồn: ashui.com)
[3] Hiệu ứng xảy ra khi lớp khí nóng phía trên bị làm nguội, do chênh lệch áp suất sẽ bị đẩy xuống phía dưới.
[4]
Là hiện tượng nhiệt độ ở khu vực đô thị thường cao hơn nhiều nhiệt độ
các vùng lân cận. Hình thành khi bức xạ mặt trời bị các kiến trúc xây
dựng, đường sá, vỉa hè… giữ lại thay vì được hấp thu vào đất, nước, cây
cỏ hay được phản chiếu trở lại không gian để gió mang đi. Một lượng
nhiệt không nhỏ khác do con người tạo ra từ máy móc sinh hoạt và văn
phòng, động cơ xe cộ và nhà máy công nghiệp. (Nguồn:
www.physicsworld.com)
[5]
Compact city – khuynh hướng, ý tưởng quy hoạch đô thị thịnh hành từ đầu
những năm 90, chủ trương xây dựng thành phố theo hướng nhỏ gọn, mật độ
lớn, với các khu chức năng hỗn hợp, có hệ thống giao thông công cộng
hiệu quả, khuyến khích việc đi bộ và đi xe đạp, theo tình thần ‘phát
triển bền vững’, đối lập với xu hướng xu hướng phát triển đô thị ‘vệt
dầu loang’ (Nguồn: www.ashui.com)
[6]
“Nước xám” là nước thải từ các hoạt động trong nhàcủa con người như tắm
giặt, nấu nướng, v.v…, phân biệt với “nước đen” (blackwater) là nước
thải từ nhà vệ sinh.
[7]
Hành lang thực vật kết nối hai hoặc nhiều môi trường sinh thái khác
nhau đóng vai trò quan trọng trong việc chống phân mảnh môi trường sinh
thái và bảo tồn đa dạng sinh học (xem thêm tại: www.seqcatchments.com.au/LiteratureRetrieve.aspx?ID=69158).
[8]
Một kiểu hành lang sinh thái được tạo bởi các mảng thực vật rời rạc
đóng vai trò như những “bàn đạp” hay “bước đệm” kết nối các môi trường
sống khác nhau (xem thêm tại: www.seqcatchments.com.au/LiteratureRetrieve.aspx?ID=69158).
Nguồn: http://greenforvietnamblog.com